Yêu – Thích
(Tản mạn kỷ niệm 44 Năm Nhập Trường của Khóa 26 – Tháng 6, 2013
Orange County – California)
Tôi không dám khẳng định ngày mai bạn hay tôi sẽ trúng
số, nhưng chắc chắn một điều trong tương lai tôi và bạn sẽ già . Câu đầu môi :
Sinh Lão Bệnh Tử nghe như đùa mà có thật . Sinh : Mình không lựa chọn được –
Lão Bệnh Tử cũng không thể từ chối .
Tôi thắc mắc giữa khoảng Sinh và Lão Bệnh Tử là cái gì,
tại sao không thấy nhắc đến . Có phải trong khoảng đó, tôi-bạn có quyền quyết định, có quyền chọn
lựa để đến lúc Lão Bệnh Tử có những phận số khác nhau chăng! Người phải lăn lộn
ăn năn luyện tội truớc khi chết trên giường bệnh, hay thanh thoả hồn xác rũ áo
ra đi, lánh cõi trần này trong giấc ngủ nhẹ nhàng, không cần lo lắng chuyện kèn
trống quan quách, chẳng cần thắc mắc: “Triệu người quen có mấy người thân, khi
lìa đời có mấy người đưa?”
Cô bạn gởi thơ viết vài điều về tuơng
lai sẽ thế nào khi về già, những đau tay đau cổ đau lưng, những mệt mỏi uể oải
khi sáng phải thức đậy di làm, về đến nhà không còn sức đế càm ràm chồng
con! Nhớ ngày nào xông xáo dọn dẹp, nay
cửa nhà có hơi bề bộn chút cũng chẳng sao, sức lực còn nữa đâu mà chinh đông dẹp
bắc, dọn phòng khách dẹp phòng ngủ, chùi rửa phòng tắm phòng ăn, cuối tuần chợ búa? Màn hình máy vi tính đợi
chờ cô viết ba điều bốn chuyện, luyện tiếng Việt, ôn văn chương thi phú, ngón
tay mệt mỏi, ý tuởng chẳng còn nhạy bén quên nhớ nhập nhằng. Đọc một đoạn văn,
tìm một đoạn thơ, ngơ ngác hỏi sao thiên hạ còn yêu đời quá thế!
Tôi vội vã khuyên can vỗ về, tại không còn
yêu đấy thôi, nếu bạn còn yêu, đời sẽ vẫn vui như cũ, “Sống mà không được yêu
là chết mà biết thở!” Thời thanh xuân, cần
được yêu, thời xế bóng không cần được nữa mà phải chủ động yêu, YÊU cái gì, yêu
ai, yêu thế nào là điều cần phải động tâm suy nghĩ.
Vợ chồng ư, ba chữ Y – Ê – U đã thành N
– H – Ẫ – N thành T – H – Ư – Ơ – N – G
Con cái ư! Chúng chẳng cần gì mình nữa,
đã có mái ấm riêng, đã có đời riêng, quý trọng mẹ cha lâu lâu ghé về ăn bữa cơm
mẹ nấu, gọi điện thoại hỏi thăm vài câu đã làm mẹ xúc động bồi hồi.
Cháu nội ngoại ư, yêu chúng cho nhiều chỉ
chuốc thêm phiền não, vì không thay đổi được đường lối dậy con của cha mẹ
chúng.
Thế thì Yêu gì bây giờ? Tiếng Việt mình,
chữ Yêu bao la quá, gì cũng Yêu, trong khi người Nhật và người Đại Hàn ít khi
dám dùng chữ Yêu, họ chỉ dùng chữ Thích cho dù ngôn ngữ của họ cũng có chữ Yêu
hẳn hoi. Dám kể ra thế này vì khi xem phim Nhật phim Đại Hàn có phụ đề Anh ngữ,
chỉ thấy chữ Thích – Like. Tò mò hỏi bạn người Nhật, người Đại Hàn, họ giải
thích chữ Yêu rất ít khi được dùng vì người ta để dành cho những tình cảm
thiêng liêng sâu kín chân thành (!) thí dụ như: “Yêu người trong mộng còn lại
trong ký ức, không đụng không vói không tìm lại được nữa!” cách giải thích đơn giản nhưng dễ hiểu làm sao,
thi sĩ Hồ Dzếnh để đời trong bài Ngập Ngừng: “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở,
Tình mất vui khi đã vẹn câu thề!” Một ý tưởng mới lạ vượt qua khỏi lễ giáo, chống lại định kiến yêu phải thủy chung son sắc từ khởi đầu đến kết thúc, nếu yêu mà
không được sống gần nhau, không được lấy nhau chỉ có một con đường là ốm tương
tư đến chết, không chết thì phải đi tu! Ai không tin, lục lọi trong tàng kinh
các Google, các sách truyện thời nhà thơ Hồ Dzếnh sống sẽ thấy, truyện tình yêu kết thúc trong bẽ bàng đau khổ
vì cửa nhà không cao to bằng nhau, môn không đăng hộ không đối. Lý do khiến hai câu thơ được ghi chép từ thế hệ này sang thế hệ
khác, từ ông đến cha đến con, ai cũng giấu giếm trong tim hình bóng một người, vì tình đẹp, người đẹp khi tình dang dở!
Lan man từ già sang yêu, sang thích sang
bí ẩn góc trái tim của quí ngài võ biền, vai rộng lưng cao người viết đang chứng minh một điều:
“phụ nữ lắm chuyện!” ai hơn được phụ nữ về khía cạnh này nhỉ! Một câu nói một cử
chỉ của người đối diện, đủ khiến phụ nữ diễn giải tâm lý nhân vật một cách khúc
chiết, có lớp lang thứ tự như một thiên tiểu thuyết tràn đầy tâm tư tình cảm,
dù sự thật “chẳng có gì sất” như lời
xác nhận cương quyết của một nhân vật, đã được ghi vào thiên tình sử, thuở khăn
gói nhập trường Võ Bị Đà Lạt 44 năm về trước.
Tình
sử luôn có khía cạnh quyến rũ riêng tư của nó, càng ra vẻ bí mật càng khiến
thiên hạ trầm trồ, hình bóng bí ẩn mơ hồ trường nữ Couvent Des Oiseaux, hình dạng hiển nhiên Bùi Thị
Xuân, luôn được nhắc với giọng trầm xuống chút đỉnh, đôi mày cau cau, ánh mắt
nhìn quanh xem cả bàn tiệc có chú ý đến người đang kể hay không, kéo đuôi mắt liếc nhanh sang người
phụ nữ ngồi bên cạnh, người được đặt tên: “Thích Muôn Đời” xem nét mặt nàng có biến
sắc hay không, nếu nét mặt nàng không có gì thay đổi, chuyện bí ẩn tiếp
tục được kể một cách say mê theo trình tự:
-
Trốn phố ra chợ gặp chị Chúc mượn tiền.
-
Dẫn lên Đồi Cù.
-
Đi ăn kem Tuổi Ngọc, uống cà phê Tùng .
-
Ngồi nhà Thủy Tạ.
Câu chuyện chỉ ngưng lại khi người được Thích
Muôn Đời nhắc: “Anh kể thiếu đoạn nàng bỏ rơi anh, để theo ông quan ba có xe jeep đến đón!” Xin phép viết
thêm cho rõ ràng là: Thích Muôn Đời = Vợ = người phụ nữ lãnh nhận nhiệm vụ chăm
sóc an ủi vỗ về, chịu thương chịu khó trong đời của chàng = người được gán cho
đủ danh hiệu hoa mỹ sau lưng như: đấng bề trên, bà chủ, thủ trưởng, cấp chỉ
huy, công an khu vực, bà chằn, sư tử Hà Đông v.v Có lẽ người Việt cũng không dùng chữ Yêu
để nói với vợ hoặc chồng mình, nên được nói nhỏ vào tai: “Em là người anh thích muôn đời đã là một vinh hạnh.
Nhìn quanh bàn tiệc, những mái tóc muối
nhiều hơn tiêu mặn chát , nên bia lạnh cứ thế mà hòa vào cho nhạt bớt tiếng xuýt xoa, khoe đau
đây đau kia ra
vẻ ta đây chẳng thua ai, bệnh mất ngủ, bệnh cao mỡ,
cao máu, biến chứng này nọ của thuốc. Thay vì bầy cách theo cô này cô nọ, các ông bây giờ bầy nhau
uống lá, lá đu đủ chữa ung thư, lá vú bò chữa tiểu đường, lá gừng chữa đau bụng, trộn quanh với bao kỷ niệm không thể nào quên những ngày còn là sinh viên sĩ quan Đà
Lat.
Chẳng biết tại sao, mối tình bốn năm dưới
mái trường Võ Bị Đà Lạt lại thâm sâu bền vững đến thế, có dang dở chi đâu chứ,
yêu chi mà yêu lạ yêu lùng, chỉ cần nghe có chữ Võ Bị là đâu cũng đến, xa mấy
cũng đi, khóa mấy không cần biết, nghe kêu là xỏ áo chạy.
Nhờ có internet mà mưa đông gió tây, mây nam giông bắc ai ai cũng
biết nơi hội ngộ để tụ về, dây nhợ nào giăng mà tin đi tin đến như mắc cưởi lụa
đào, từ Việt Nam sang, từ Úc Châu đến, Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ có đến gần chục
tiểu bang góp mặt. 44 năm, nếu không vì
yêu tha thiết dễ gì còn nhớ tên nhớ họ, dễ gì mà ông lão hơn 60 trở lại mốc
xuân thì, chẳng lụ khụ chống gậy “lậy cụ” lại mày tao mi tớ như xưa. Một tuần
trước kéo thêm một tuần sau ngày hội chính, các ông cứ nắm níu lấy nhau như
hình với bóng, như ái thiếp với quân vương, quên vợ quên con, quên cả cháu, tay
xua: “Ai đi đâu cứ đi, để anh ngồi đây với các bác!”
Tôi
không đi mua sắm, không màng ghé các quầy hàng ăn uống trong khu Phước Lộc Thọ
nổi danh khắp nơi tại khu Little Saigon, tôi nhất định theo chồng hóng chuyện
dù có lúc bị xua đuổi, : “Đàn bà đi chỗ khác chơi!” Có lẽ các anh sợ “chuyện xưa” bị lộ “về chết với
bả!” Tôi phải giơ tay thề thốt, nghe tai này cho qua tai kia, không mách lẻo,
không “buôn lê” bán rẻ bạn của chồng, dù
biết làm như thế là “đứng sai chiến tuyến.” Nhưng, chuyện đã qua trong quá khứ
chỉ là chuyện kể không còn tồn tại, đống tro tàn khơi lại nhẹ nhàng có chút vấn
vương ngơ ngác, như khói thuốc thơm “râu” thế thôi, có được “ký phép” cho các
chàng tìm gặp lại cố nhân, gần trăm phần trăm đều trả lời: “Xin bà cho mai!” Bởi
lẽ gặp lại, hình dáng xưa sẽ vỡ nát như gương, khuôn mặt kiêu sa như Hằng Nga,
như Tây Thi, như Dương Quí Phi chắc chắn sẽ bị méo mó trong mắt chàng, nhất là
sợ phải gởi tiền về Việt Nam tặng nàng đi gắn hàm răng giả! Có chàng còn biết
nàng đang định cư tại một nơi rất gần tiểu bang mình ở, có cả số điện thoại
riêng mà rồi tự động xé tờ giấy ghi số điện thoại đó đi không giữ nữa, vì nàng
góa bụa còn đang nuôi con đi học, thăm hỏi xong rồi sẽ phải làm gì, cho dù có gặp
giữa đường cũng đành “Liếc đưa nhau đi rồi đôi mắt có đuôi!” Phan Khôi xa cách chỉ “hai mươi mấy năm xưa!”
đằng này bốn mươi bốn năm xưa! Thả gió bay vù cho xong. Lý do tôi đã phớt lờ
không kể thêm gì về nhân vật khẳng định “chẳng
có gì sất” bốn mươi bốn năm trước ở đoạn trên!
Nhờ
tính gan lì tướng quân ấy, tôi biết đôi điều rất đặc biệt về Trường Võ Bị Quốc
Gia Đà Lạt, nơi chồng tôi đã hân hạnh được thụ huấn, được trui rèn thành người
đàn ông gần như tuyệt vời của tôi, dùng chữ “gần như” vì tôi không muốn bị mang
tiếng là tôn vinh chồng quá đáng, anh vẫn có bao nhiêu khuyết điểm vì làm kiếp
con người, nếu toàn vẹn thì đã thành thánh nhân, mà thánh nhân thì không sống
được trên trái đất này!
Ngôi trường ấy, cách đây 44
năm, đã nhận gần hai trăm thanh niên trên khắp các vùng đất nước từ Quảng Trị cho đến Cà Mau, có
người từ Lào, Thái, có người đã lê la bao năm đại học, có anh mới tò
te vừa
đậu bằng tú tài hai, có người
từ thành thị phồn hoa, cũng không ít những chàng ở những nơi xa xôi nghèo khó vào Khóa 26. Họ đã giã từ tuổi hoa niên, lứa tuổi đẹp đẽ nhất của đời người, đến một nơi được gọi
là "nơi quy tụ những chàng trai có lý tưởng
quốc gia." Họ chọn
binh nghiệp thay vì vào các đại học có “cây dài bóng mát” để “uống ly chanh đường
uống môi em ngọt!”
Đà
Lạt, vùng trời cao nguyên thơ mộng, cuối thập niên 60 là
nơi dành cho người quyền quý giàu có lên nghỉ mát, không hiếm người sống cả đời
chỉ mong một lần được ghé thăm Đà Lạt, chụp hình bên cạnh thác Cam Ly, bên cạnh
gốc thông già, và được thấy người Thượng không mặc áo. Chuyện tình hồ Than Thở
lại càng khiến Đà Lạt thêm huyễn hoặc, các cô thiếu nữ mê man đọc “Thung Lũng
Tình Yêu” – “Mắt Tím” của Lệ Hằng để mơ màng trở thành cô thiếu nữ trong truyện,
lên Đà Lạt nghỉ hè, gặp tình đầu lãng mạn.
Các chàng trai trẻ mái tóc bềnh bồng, chiếc áo sơ mi trắng vải điệu
đàng, hăm hở xuống sân bay Liên Khương, bước qua cổng Nam Quan , nhập khóa 26 Trường Võ
Bị Đà Lạt. Sau hồi kèn nhập trường, trở thành những tân khóa sinh, nhận quân
trang quân dụng, cạo tóc 3 phân, được gặp các “hung thần” trong tám tuần lễ sơ khởi, đã khiến tất cả trở thành một khối đồng cam cộng khổ, biến
họ từ anh thư sinh ẻo lả thành người
hùng hiên ngang, cơm và hơn chục bát, sữa hộp uống cả một lon, đã được các chàng lưu giữ kỷ niệm
đến
mãi bây giờ.
Qua được giai đoạn đầu khó khăn ấy, các chàng trai tóc
ngắn ba phân, dáng người khỏe mạnh trong bộ treillis màu lá cây được huấn luyện để trở thành một sĩ quan hiện dịch
văn võ song toàn, Họ
phải trở
nên
những nhà lãnh đạo quân sự và hành chánh cho cả thời chiến lẫn thời bình. Họ phải học khổ sở cả ba chuyên ngành: khoa học thuần
túy, khoa học ứng dụng, và nhân văn xã hội. Khi Tân Thiếu Úy ra trường có văn bằng Cử Nhân
Khoa Học Ứng Dụng, tương đương với tất cả các trường đại học công lập trên toàn
cõi Việt Nam. Khổ sở, nhưng các anh đã được hưởng ưu đãi hàng đầu của đất nước,
tiện nghi vật chất không thiếu, “hung thần” của 8 tuần sơ khởi chính là những
ông tiên, âm thầm chăm sóc “đàn em”, nhất là khi được ra phố với cầu vai mang
alpha đỏ, bao nhiêu ánh mắt “em cao nguyên má đỏ môi hồng” chiêm ngưỡng.
Với lý tưởng đã có sẵn, kèm thêm món nợ quốc gia đặt trên vai, những người
trai ưu tú ấy đã tự đặt cho mình một mục đích cao hơn ngày còn là dân chính, với áp lực ấy, họ xung phong vào các
binh chủng mặt đối mặt với quân thù Thủy Quân Lục Chiến, Nhảy Dù.
Một trăm bảy mươi lăm sĩ quan khóa 26 đã không làm thất vọng sự mong đợi của Trường Mẹ. Một phần ba trong số các sĩ quan ấy đã hy sinh
anh dũng trên chiến địa, họ ra đi khi còn quá trẻ. Ngày hội ngộ, hình ảnh của
các anh được chiếu trên màn ảnh, làm bao giọt lệ lăn dài trên má khi nghe xướng danh tưởng nhớ.
Vào mùa hè, mùa lễ nghỉ, các khóa thay nhau hội họp, nội dung giống
nhau, tiền đại hội, đại hội với âm nhạc, khiêu vũ, tặng hoa “cám ơn hiền nội”,
các ông tìm về kỷ niệm trẻ lại hơn hai mươi tuổi, các bà được theo chồng, nghe
chuyện kể râm ran, cho dù câu chuyện năm này sang năm khác, lần họp này sang lần
họp khác cũng vẫn cùng một nội dung. Nghe câu: “Xin ông cho mai!” lại phá lên
cười, nhắc đến đánh bi da thắng mì gói, nhậu say bên khu gia binh, dẫn bạn gái
ra vườn con thỏ, món nợ chưa trả chị Mai, bộ đồ “vía” bán ngay sau khi mãn khóa
để trang trải nợ nần, người này biếng nhác lau nhà, kẻ nọ giả bộ đau chân để
vào “phái đoàn thiện chí!”
Những
mái đầu xanh giờ đã bạc, khán phòng râm ran cười
nói, Trường
Mẹ Võ Bị Đà Lạt có 31 người con, theo thời gian còn lại đâu đó 22
người (khóa) họa hoằn lắm mới nghe xướng danh các niên trưởng khóa 4, 5, 6, 7,
8, 9, con số sẽ bớt đi mỗi năm – tiểu gia đình cũng thế, theo thời gian con số hiện
diện cũng vắng đi dần. Các niên trưởng tuổi già sức yếu, mối tình chung dù vẫn
âm thầm mãnh liệt, cũng chỉ có thể gởi chút hiện kim đóng góp, đôi chân run,
cánh tay yếu không sao đến được để họp mặt với nhân tình. Anh Tô “to” khóa 19 gặp
em Tô “nhỏ” khóa
29 cách nhau mười năm tuổi, chẳng kể trẻ già, chén chú chén anh, hỏi thăm
nhau ba điều bốn chuyện, hẹn hò nhau, đến hội lại lên.
Còn gì cho nhau nhỉ ngoài mối tình chung
không thể xóa nhòa này, chữ Yêu diễn tả ở trên được dùng trong trường hợp này
còn gì đúng hơn nữa không! Dòng máu trẻ trung luân lưu trong cơ thể được xem là
đã lão
trong ngày họp khóa, khiến đôi mắt các chàng
sáng hơn, miệng cười tươi hơn, quên hết tất cả chỉ còn niềm hoan
lạc: Anh em ta về - cùng nhau ta quây quần này . . . tìm về tuổi trẻ. Lý tưởng ngày
xưa nay thành liều thuốc bổ ngày nay.
“Sống mà không yêu, là chết mà biết thở!”
Già rồi tìm đến các bạn đồng khóa để được yêu, các bà “Thích Muôn Đời” sẽ khuyến
khích và hoàn toàn không ngăn cản mối tình này.